Mô tả
Còn được gọi là cam giá.
Tên khoa học là Saccharum offcinarum L.
Thuộc họ nhà Lúa Poaceae (Gramineae). Saccharum là do chữ Ấn Độ sakhara còn có nghĩa là đường, cam giá là vì cam là ngọt, giá là gậy, cây mía trông giống cái gậy, lại có vị ngọt.
Mía thuộc vào loại cây cỏ sống dai, thân yếu, thân và rễ mang các thân cây thường mọc trên mặt đất cao khoảng từ 2-5m, đường kính từ 2-5cm, tận cùng cây bằng một túp lá, dài từ 30-100cm. Thân cây có các đốt, giữa các đốt thường có chứa nhiều sacaroza.
Mía có rất nhiều loại mía: Mía đe thân nhỏ, loại gầy và thấp, mía bầu có thân to và cao, mía có vỏ trắng, đỏ hay là tím. Có thứ mía chứa nhiều đường, cũng có thứ chứa ít đường.
Thành phần
Trong thân cây mía có: chất Sacaroza từ 1-10%; protein khoảng 0,22%; chất béo khoảng 0,5%; tro khoảng 0,5%. Thành phần tro gồm chủ yếu là CaO 4,14%; Cl 0,99%, MgO 3,53%; Na2O 0,88%; SiO2 27,97%; Fe2O3 0,11%; K2O 36,61%; SO3 17,38%; P2O5 4,76%; ngoài ra trong rễ mía còn có Mn3O4 4,54%.
Các chất men có trong mía như: Lacaza, tyrozinaza, oxydaza, cả ba loại men này thường chỉ có trong nước mía non. Ngoài ra còn các chất như: glyxin, asparagin, glutamine, guanine, xylan, arabinoza, lơxin và tannin.
Vỏ cây mía có chứa chất béo gồm các axit oleic, axit linolic, axit stearic, axit panmatic và axit capronic. Ngoài ra còn có lexitin, phytosterin.
Chất sáp mía chiếm 35% gồm chủ yếu là các axit xerotinic và rượu myrixylic.
Nước mía có màu nâu khi mà để lâu là do men lacaza và polyphenola, men tyrosinaza trên chất tyrosin, ngoài ra cón có tác dụng từ các axit hữu cơ, và từ các men trên chất sắt của máy ép mía. Nước mía chứa thành phần sacaroza 20%, glucoza, axit malic, axit tactric, axit xitric, axit aconitic, rượu myrixylic, cả galactoxylan và K2O.
Lá mía khô có chứa 0,0358 đến 0,1066% các axit xyanhydric.
Công dụng
Nước mía có tác dụng làm tiêu đờm, hết khát và vô cùng bổ dưỡng.
Mía còn chính là là nguyên liệu chế đường, mật, còn dùng làm thực phẩm và để chế thuốc, chế rượu.
Đơn thuốc có chứa nước mía
Nước mía lấy 7 chén, nước gừng một chén. Nhấp dần để chữa ăn vào nôn ra, hoặc là chữa sáng ăn chiều nôn, tối ăn sáng lại nôn.